Các Khu công nghiệp nổi tiếng tại Hà Nội

Hà Nội, thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam, là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hoá – khoa học và công nghệ của cả nước. Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng với dân số trên 80 triệu người và sự gia tăng dân số 1 triệu người một năm.

Hà Nội tập trung nguồn nhân lực trí tuệ, chiếm 62% trong cả nước. Một số lớn cán bộ khoa học và quản lý có trình độ đại học trở lên sống và làm việc tại Hà Nội. Tiêu chuẩn văn hoá và kỹ năng làm việc của công dân Hà Nội tương đối cao. Họ có thể tiếp cận công nghệ và quản lý hiện đại nhanh chóng. Chi phí nhân công ở Hà Nội là hợp lý.

Hơn nữa, cơ sở hạ tầng của Hà Nội, đặc biệt là hệ thống giao thông, giao thông, ngân hàng và tài chính đang phát triển một cách nhất quán, đáp ứng được tất cả nhu cầu của các nhà đầu tư. Đã thành lập 5 Khu công nghiệp bao gồm KCN Nội Bài – Sóc Sơn, KCN Sài Đồng B, KCN Thăng Long, KCN Đài Loan với vốn đầu tư hàng trăm triệu USD để đầu tư hạ tầng kỹ thuật.

Khu công nghiệp Sài Đồng A

Số giấy phép: 1595 / GP, ngày ban hành: 17/6/1996. Cơ quan ban hành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Hình thức đầu tư: liên doanh với đối tác nước ngoài, đối tác Việt Nam: công ty Điện tử Hà Nội (Hanel) và đối tác nước ngoài: Tổng công ty DAEWOO – Hàn Quốc. Trụ sở chính Tầng 9 Trung tâm thương mại DAEHA 360 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 8 315 173 – 8 315 174, Fax: 8 315 175

Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án là 152.000.000 USD, trong đó vốn pháp định: US $ 45,903,125. Bên Việt Nam đóng góp chiếm khoảng 40% và bên nước ngoài là 60%.

Khu công nghiệp Sài Đồng A có diện tích đất: 407 ha và khu công nghiệp: 147ha. Khu nhà ở và kinh doanh: 105ha, công viên cây xanh và khu vực công cộng: 105ha.

Lĩnh vực đầu tư các dự án trong KCN: Công nghiệp cơ khí, công nghiệp Điện tử Công nghiệp ô tô, công nghiệp chính xác, công nghiệp nhẹ và công nghiệp công nghệ cao.

Địa điểm: Khu vực Sài Đồng. Huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thời lượng: 50 năm

Khu công nghiệp Sài Đồng B

Cơ quan ban hành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hình thức đầu tư: liên doanh. Đối tác Việt Nam là ông ty Điện tử Hà Nội (Hanel) và phía đối tác nước ngoài là Tổng công ty DAEWOO – Hàn Quốc.

Trụ sở chính Tầng 9 Trung tâm thương mại DAEHA 360 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 8 315 173 – 8 315 174, Fax: 8 315 175.

Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án với tổng số vốn là 120,36 tỷ đồng. Bên nước ngoài đầu tư 100%.

Diện tích đất: 96ha, khu công nghiệp Sài Đồng B 79ha, giao thông đất đai: 10ha.

Khu công nghiệp được phát triển theo 3 giai đoạn như sau: Pha 1: 48,5 ha, pha 2: 48,61ha và giai đoạn 3: Các cơ sở khác

Lĩnh vực đầu tư các dự án trong KCN: Công nghiệp Kỹ thuật Cơ khí, công nghiệp Điện tử Công nghiệp ô tô, công nghiệp nhẹ và công nghiệp công nghệ cao.

Địa điểm: Khu vực Sài Đồng. Huyện Gia Lâm, Hà Nội. Thời lượng: Đến năm 2047

Khu công nghiệp Đài Loan

Khu công nghiệp Đài Loan – Hà Nội, hiện đang được xây dựng, sẽ biến quận Gia Lâm thành vùng ngoại ô thành phố Hà Nội, từ nông nghiệp có mức thu nhập khoảng 54.500 đô la Mỹ mỗi năm cho một khu công nghiệp có sản lượng công nghiệp Khoảng 200 triệu đô la Mỹ một năm.

Tháng 8 năm 1995, Chính phủ Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho Khu công nghiệp Đài Loan Hà Nội. Đầu tư ban đầu là 12 triệu đô la Mỹ đã được thực hiện để trang trải cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và chuẩn bị 31 địa điểm nhà máy.

Tổng mức đầu tư vào KCN Hà Nội ở Hà Nội sẽ từ 40 đến 50 triệu USD, trong đó 60% sẽ được sử dụng trong 3 năm với khoản vay IDCF, với lãi suất 5,5%. 30 nhà đầu tư từ Đài Loan, dẫn đầu bởi Công ty Da Ming, đã được công nhận thành công trong ngành công nghiệp nhẹ. Hầu hết hàng hoá sản xuất trong các nhà máy công nghiệp nhẹ đều có công nghệ tương đối tiên tiến và ít gây ô nhiễm, bao gồm dược phẩm, điện tử, thiết bị điện, dụng cụ âm nhạc, chế biến thực phẩm, thiết bị phòng tắm, linh kiện ôtô và xe máy, giày dép …

Theo kế hoạch tổng thể Hà Nội và đóng góp vào việc hoàn thành Khu công nghiệp Sài Đồng, Khu công nghiệp Hà Nội – Đài Loan sẽ cung cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xây dựng cho các nhà máy, khu vực công cộng chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Đài Loan. Khu công nghiệp 40ha nằm ở xã Hội Xá, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km về phía đông bắc. Vị trí lý tưởng: gần quốc lộ 5; Chỉ cần 3 km từ sân bay nội địa (chủ yếu là trực thăng); Cách sân bay quốc tế Nội Bài 30km; Gần đường sắt Hà Nội – Hải Phòng; Cách cảng Hải Phòng 95km.

Đặc điểm kỹ thuật: Giấy phép đầu tư: 1358 / GP do Uỷ ban Nhà nước về Tổng công ty và Đầu tư. Vốn đầu tư: 12 triệu USD, thời lượng: 50 năm.

Tổng diện tích đất sử dụng xa: 40ha. Đất xây dựng nhà xưởng, kho chứa (chia thành 81 miếng): 32.176 ha (80,32%), đất xây dựng công cộng: 1.0781ha (2,69%), đất chuyên chở, cảng: 4.8129ha (12,03%) và đất xây dựng cơ sở hạ tầng: 1.982ha (4,96%).

Tổng số nhà máy ước tính: 31 nhà máy bao gồm: 21 nhà máy loại A, 02 nhà máy loại C và 08 nhà máy loại D.

Lễ khởi công Khu Công nghiệp Hà Nội – Đài Loan chính thức tổ chức ngày 29/12/1997. Phòng giao dịch số 26, đường số 8, Nam Thank Cong, Hà Nội, Việt Nam. Điện thoại: (84-4) 8357476/835813, Fax: (84-4) 8357483.

 

Hải Dương kêu gọi sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển bền vững

Hải Dương – Là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hải Dương cần thúc đẩy tính năng động và đổi mới, phát huy thế mạnh của địa phương, vận động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững.

 Hải Dương cần đẩy mạnh cải cách hành chính và pháp luật nhằm xây dựng một chính phủ có thẩm quyền và hiệu quả phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh và doanh nghiệp phát triển phát triển, tỉnh cần ưu tiên cho các doanh nghiệp có thể hoạt động thuận lợi trong điều kiện kinh tế hiện nay.

Hải Dương cần tăng cường kết nối khu vực; Đa dạng hóa dịch vụ; Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng trung tâm dịch vụ việc làm Hải Dương, giải quyết việc làm tại chỗ và đầu tư nhiều hơn cho khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng tăng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

Hiện tại, tổng số 325 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang được xây dựng ở Hải Dương, với tổng vốn đăng ký là 7,2 đô la Mỹ Tỷ đồng.

Hải Dương kêu gọi sử dụng nguồn nhân lực

Trong tình hình hiện nay,  tỉnh Hải Dương cần tận dụng lợi thế về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng ở địa phương.

Hải Dương cần chủ động tìm kiếm các phương pháp năng động và sáng tạo để tiến tới một cách nhanh chóng và bền vững, Thủ tướng cho biết tại buổi làm việc với các quan chức chính của tỉnh tại Hà Nội .

Địa phương đã được yêu cầu cơ cấu lại mạnh mẽ nền kinh tế, tập trung vào việc không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ.

Tỉnh đẩy mạnh thu hút đầu tư và sản xuất công nghiệp, đặc biệt là các dự án công nghệ cao.

Tỉnh cần tập trung đào tạo nghề và tạo việc làm cho người trong độ tuổi lao động của tỉnh. Nguồn nhân lực lao động của tỉnh còn nhiều hạn chế, nhu cầu sử dụng lao động tại các khu công nghiệp của tỉnh ngày càng cao, vì vậy kêu gọi đầu tư nguồn nhân lực hiện tại là nhu cầu thiết thực hiện nay nhằm cung cấp nguồn lao động có tay nghề và kỹ năng tốt cho các doanh nghiệp. Bằng những nỗ lực không mệt mỏi sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng ổn định, người lao động tìm việc làm phù hợp, cuộc sống của họ tốt hơn sẽ giúp phát triển nền kinh tế của tỉnh ngày càng tăng cao.

Hải Dương đang phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 6-6,5% và tăng thu nhập bình quân đầu người lên 33,6 triệu đồng trong năm nay, Chủ tịch Hiên nói.

Hải Dương hướng tới mục tiêu phát triển khu công nghiệp bền vững

Tỉnh Hải Dương với 18 khu công nghiệp nằm ở phía Bắc của tỉnh, với tổng diện tích 3.710 ha. KCN ở Hải Dương đang có sức hút mạnh mẽ đến các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh.

Là một bộ phận của tam giác kinh tế trọng điểm Bắc nối với các vùng có các tuyến giao thông như Quốc lộ 5, 18, 37 và 38B, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, tỉnh Hải Dương có lợi thế cạnh tranh lớn để hình thành các khu công nghiệp.

Ngay sau khi dự kiến, KCN đã thu hút nhiều nhà đầu tư hạ tầng cơ sở có năng lực tài chính mạnh như Công ty Cổ phần Đại An và Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Nam Quang.

Để hỗ trợ các KCN phát triển, tỉnh đã sử dụng tất cả các nguồn lực để xây dựng hệ thống và cơ sở hạ tầng đồng bộ cho hàng rào của KCN, bao gồm các tuyến giao thông, lưới điện, hệ thống cấp nước và hệ thống thông tin liên lạc.

Hải Dương cũng rất coi trọng cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường đầu tư thân thiện. Tỉnh đã đưa ra một cơ chế ưu tiên riêng cho các công ty đầu tư vào các khu công nghiệp.

Các thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng bằng cơ chế nguồn một cửa và một cửa để tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư khi tiến hành các thủ tục đầu tư và thực hiện các dự án. Chính quyền địa phương chủ động giám sát, kiểm tra các dự án đầu tư và hỗ trợ để giải quyết những khó khăn đang nổi lên để đưa dự án đi vào hoạt động đúng tiến độ.

Do đó, mặc dù trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, ngoài các dự án mới, các nhà đầu tư cũng đã tăng đầu tư để mở rộng sản xuất, nâng cấp trang thiết bị và dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường.

Năm 2013, Ban Quản lý các Khu công nghiệp Hải Dương đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 18 dự án mới, trong đó có 15 dự án đầu tư nước ngoài và 3 dự án trong nước, thay thế giấy chứng nhận đầu tư cho 58 dự án, trong đó có 12 dự án nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 747 triệu USD, cả vốn tươi và vốn bổ sung, và các nhà đầu tư trong nước đã thu được 508,8 tỷ đồng (25 triệu USD).

Năm 2013, lượng vốn đầu tư thu hút vào các KCN tăng 38% trong năm 2012 và vượt qua kế hoạch 50% hàng năm. Số dự án bổ sung vốn đầu tư tăng 62% so với năm 2012 và kế hoạch dự kiến. Lượng vốn nước ngoài trong năm tăng 7,9 lần so với năm 2012 và gấp 7,4 lần so với kế hoạch, trong khi vốn đầu tư trực tiếp trong nước bằng 95,7% giá trị năm 2012, nhưng tăng 5 lần so với kế hoạch.

Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, mở rộng xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

Cho đến nay, có 176 dự án và một văn phòng đại diện, bao gồm cả các nhà phát triển hạ tầng, đã đăng ký đầu tư hơn 3 tỷ USD vào KCN. Năm 2013, các nhà đầu tư đã giải ngân 274 triệu USD cho các dự án của họ, đưa tổng lượng giải ngân của họ lên hơn 1,8 tỷ USD. Người thuê trong KCN đang sử dụng khoảng 70.000 công nhân, bao gồm 69.400 công nhân trong nước và 600 người nước ngoài).

Trong thời gian tới, tỉnh Hải Dương sẽ tiếp tục phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, quản lý hiệu quả các khu công nghiệp đã được phê duyệt và thúc giục các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện dự án đúng tiến độ.

Tỉnh cũng sẽ đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các dự án quy mô lớn sử dụng công nghệ tiên tiến, phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu – đặc biệt là hàng may mặc, điện, điện tử, thiết bị viễn thông và cáp. Địa phương cũng sẽ tăng cường kiểm tra và hướng dẫn cho người thuê trong khu công nghiệp.

Hải Phòng yêu cầu chuyển khu vực tư nhân thành động lực phát triển

Thành phố cảng Hải Phòng phía Bắc cần nỗ lực hơn nữa để biến khu vực tư nhân thành động lực quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Hải Phòng có vị trí chiến lược của thành phố trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc – cửa ngõ chính phía Bắc – trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng.

Hoạt động mạnh mẽ trong 6 tháng đầu năm 2017, Hải Phòng vẫn đang đáp ứng yêu cầu là trung tâm công nghiệp chính của cả nước và là động lực Cho sự phát triển kinh tế xã hội của vùng duyên hải Bắc.

Hải Phòng nghiên cứu định hướng phát triển để xứng đáng với vị thế là thành phố lớn thứ ba của đất nước và phát triển thành một thành phố cảng xanh hiện đại và một trung tâm dịch vụ và công nghiệp lớn có cạnh tranh cao.

Hải Phòng phối hợp với các cơ quan trong và ngoài nước hoàn thiện quy hoạch phát triển để trở thành trung tâm hàng đầu của cả nước và khu vực. Đồng thời, Hải Phòng cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh bằng cách đẩy nhanh cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng cho du lịch, biến du lịch thành một khu vực kinh tế quan trọng của thành phố.

Số liệu thống kê được công bố vào buổi làm việc cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2017, Hải Phòng đã có mức tăng trưởng GDP cao nhất trong vòng 10 năm qua (GRDP). Hải Phòng vẫn là một trong 10 điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất với 24 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép trong 6 tháng đầu năm nay, trong khi 20 dự án hiện tại được phép tăng đầu tư, với tổng số vốn đầu tư là 617 triệu USD.

Thành phố cũng giải ngân trên 3.700 tỷ đồng do đầu tư công, tương đương với 40,8% kế hoạch năm. Số lượng doanh nghiệp mới thành lập trong 6 tháng đầu năm 2017 là 1.598, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm ngoái, với tổng số vốn hơn 7.400 tỷ đồng.
Hải Phòng tăng cường cải thiện môi trường kinh doanh

Hải Phòng hiện nay không ngừng cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đã thu hút được nhiều nguồn lực đáng kể từ các doanh nghiệp lớn và vừa trong nước,ngoài nước cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Thành phố Hải Phòng là một trong số ít các địa phương của Việt Nam được nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên (FDI) với vai trò là trung tâm vận tải của khu vực với các cảng biển quan trọng, hệ thống giao thông trên đất liền, đường thủy nội địa, đường biển và đường hàng không.

Các dự án FDI ở thành phố tập trung vào công nghệ cao, chế biến, sản xuất, điện tử, kỹ thuật và sản phẩm đất hiếm. Các nhà đầu tư từ các quốc gia và vùng lãnh thổ đã đổ vốn vào thành phố, bao gồm cả Nhật Bản và Hàn Quốc và họ mang theo công nghệ tiên tiến hiện đại với môi trường. Các nhà đầu tư tiêu biểu là Công ty trách nhiệm hữu hạn Bridgestone Tire Manufacturing Việt Nam với dự án sản xuất lốp ô tô (1.224 triệu USD), Công ty TNHH NIPRO Pharma Việt Nam với nhà máy sản xuất thuốc trị giá 250 triệu USD và Công ty TNHH Fuji Xerox Hải Phòng với Máy in và máy photocopy (119 triệu USD), LG Electronics Việt Nam – Hải Phòng (1,5 tỷ USD), LG Display Hải Phòng (1,5 tỷ USD). Bên cạnh các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, thành phố cũng đã thu hút được nhiều dự án lớn và có uy tín của các nhà đầu tư trong nước như Công ty Cổ phần Vingroup và Tập đoàn Him Lam để phát triển du lịch và dịch vụ thương mại, góp phần giúp thành phố đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phục vụ Và ngành công nghiệp.

Những con số này trước hết là kết quả của một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ hiện đại kết nối và phát triển các thị trường tiềm năng và lực lượng lao động của 20 triệu người ở miền Bắc Việt Nam. Từ một góc độ nhất định, những con số này một phần phản ánh sự cởi mở, tự do và quyết tâm của chính quyền thành phố trong việc thu hút FDI. Với quyết tâm chính trị rất cao về toàn bộ bộ máy để thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính và cải thiện môi trường đầu tư, các nhà đầu tư hài lòng với sự thay đổi về dịch vụ, cách thức và cách làm việc của hệ thống hành chính. Giải phóng mặt bằng nhanh chóng nhờ sự chỉ đạo và hỗ trợ của chính quyền địa phương. Nhiều dự án đã hoàn thành giải tỏa mặt bằng và bàn giao mặt đất trong vài tuần. Hải Phòng còn có nguồn nhân lực dồi dào cho các dự án đầu tư. Cơ chế ưu đãi về giảm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân cho các khu kinh tế đã kích thích các nhà đầu tư tìm kiếm cơ hội đầu tư. Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải được hưởng ưu đãi cao nhất thu hút nhiều nhà đầu tư vào thành phố. Thành phố đang đẩy mạnh các dự án cơ sở hạ tầng khu công nghiệp như KKT Đình Vũ – Cát Hải, Khu kinh tế Trảng Dài, VSIP, KCN Đình Vũ và các KCN để chào đón các nhà đầu tư mới.

Định hướng thu hút và ưu đãi đầu tư các khu công nghiệp của tỉnh Bắc Ninh

Định hướng thu hút đầu tư: Thu hút đầu tư tập trung vào:

Các dự án điện tử, sản xuất, công nghiệp phụ trợ tạo ra giá trị gia tăng cao, hình thành các cụm công nghiệp điện tử, biến Bắc Ninh thành trung tâm công nghệ cao.

Các dự án thân thiện với môi trường, sử dụng công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước;

Các dự án trong ngành công nghiệp phụ trợ có thể nâng cao tỷ lệ quốc hữu, cam kết chuyển giao công nghệ phù hợp cho từng ngành;

Các ngành công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp; Dịch vụ có lợi với nội dung kiến ​​thức cao; công nghệ thông tin; Dịch vụ khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; Phát triển cơ sở hạ tầng; Ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, công nghiệp luyện kim và hoá học;

Các dự án sản xuất ra sản phẩm có tính cạnh tranh, góp phần lớn vào ngân sách địa phương và có thể gia nhập mạng lưới sản xuất toàn cầu và chuỗi giá trị.

Ưu đãi đầu tư:

Các ưu đãi về đầu tư theo cơ chế ưu đãi do Chính phủ quy định. Ngoài ra, một số ưu đãi khác được linh hoạt để kêu gọi đầu tư các dự án lớn sử dụng công nghệ hiện đại, tạo ra sản xuất và xuất khẩu có giá trị cao, góp phần lớn vào ngân sách nhà nước, tạo nhiều cơ hội việc làm và thân thiện với môi trường;

Ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp cụ thể sử dụng công nghệ cao, công nghệ xanh, đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước, đầu tư cho lĩnh vực khuyến khích đầu tư nông nghiệp theo các điều kiện sau:

Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng: phát triển cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN cho các doanh nghiệp đóng góp ngân sách Nhà nước trên 50 tỷ đồng mỗi năm giai đoạn 2011-2012, hơn 80 tỷ đồng giai đoạn 2013-2015, hoặc cho các doanh nghiệp lớn Có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh;

Hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và xây dựng các mô hình công nghệ chất lượng cao cho các doanh nghiệp .

Hỗ trợ bồi thường đất đai dành cho các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực như nông nghiệp, phát triển nông thôn, bao gồm: mua sắm và chế biến nông sản của tỉnh, xây dựng sản xuất nông nghiệp chất lượng cao, công nghệ cao …

Hỗ trợ đào tạo nghề và tuyển dụng lao động: nếu nhà đầu tư cần đào tạo nghề cho người lao động, tỉnh sẽ hỗ trợ cho người lao động có hộ khẩu thường trú tại Bắc Ninh với mức lương là 380.000 đồng / người / tháng Thời gian đào tạo phải kéo dài tối đa 01 tháng và tối đa là 05 tháng.

Bên cạnh đó, nhà đầu tư sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác với các trường dạy nghề và ưu tiên tuyển dụng lao động có trình độ, đại học, cao đẳng.Nhờ những chính sách đúng đắn, đồng bộ, quyết liệt của các cấp các ngành ở địa phương giúp người lao động tìm việc làm, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tuyển dụng được nhân sự phù hợp, từ đó đời sống nhân dân ngày càng cải thiện, tình hình an ninh trật tự được đảm bảo.

Một số dự án kêu gọi đầu tư:

Xây dựng căn hộ cho công nhân tại các KCN sau: Tiên Sơn, Quế Võ, Yên Phong I, VSIP, Thuận Thành II, Thuận Thành III. (KCN Tiên Sơn: diện tích xây dựng 150.000m2, đủ lớn để xây dựng 12.000 căn hộ) Địa chỉ IP Quế Võ: diện tích xây dựng 250.000m2, đủ lớn để xây dựng 20.000 căn hộ. KCN Yến Phong I: diện tích xây dựng 150.000m2, đủ lớn để xây dựng 12.000 căn hộ)

Phát triển phần mềm công nghệ thông tin (trong IP, IC)

Lắp ráp, sản xuất linh kiện điện tử và viễn thông (trong KCN và CCN của tỉnh).

Sản xuất và lắp ráp điện thoại di động, điện thoại cố định (trong KCN và IC của tỉnh)

Sản xuất vật liệu tiên tiến cho ngành công nghiệp chế tạo (trong KCN và IC của tỉnh).

Nestlé khai trương nhà máy tại Hưng Yên

Khu vực của tỉnh Hưng Yên đã được sinh sống trong hàng thiên niên kỷ cách đây, vì vậy từ xưa khu vực này có điều kiện giao thông thuận lợi với các xã và chợ nằm cạnh nhau, cho phép hoạt động buôn bán bận rộn và bận rộn. Biên niên của tỉnh Hưng Yên cho biết: “Đường phố rất bận rộn, nhộn nhịp với phương tiện, hình ảnh cũ của Phổ Hiền ở Sơn Nam giờ đây đã được nhìn thấy trên mảnh đất này”.

Cho đến hiện nay, tỉnh cũng đã trở thành tỉnh thành thuộc khu vực trọng điểm khu vực phía Bắc, với vị trị thuận lợi nên đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Trong năm nay, tại tỉnh có sự đầu tư xây dựng nhà máy đi vào hoạt động của Tập đoàn Nestlé. Đại diện tỉnh Hưng Yên ông Đỗ Tiến Sỹ, Ủy viên Trung ương Đảng của tỉnh đã có buổi thảo luận trực tiếp với ông Pierre Mourin – Giám đốc Nhà máy Nestlé Bông Sen tại Hưng Yên.

Tại buổi thảo luận đại diện công ty Nestlé đã báo cáo về kết quả xây dựng Nhà máy Nestlé Bông Sen tại Khu công nghiệp Thăng Long II. Trong khuôn khổ dự án, dự án đầu tư đã được hoàn thành trước thời hạn và đi vào hoạt động sản xuất các sản phẩm đầu tiên như đồ uống bổ dưỡng, khi đi vào hoạt động đã thu hút và tạo ra việc làm cho khoảng 200 lao động đa số là người dân địa phương.

Theo kế hoạch, nhà máy khánh thành vào ngày 18/5. Đây là nhà máy thứ 6 tại Việt Nam và là nhà máy thứ hai ở miền Bắc do Nestlé đầu tư. Ông Pierre Mourin khẳng định kết quả không chỉ là nỗ lực của doanh nghiệp mà còn cho sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho chính quyền địa phương và nhân dân.

Tại buổi làm việc, Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Tiến Sỹ đã giới thiệu về tiềm năng, lợi thế và văn hoá của đất nước, của người dân Việt Nam nói chung và của tỉnh Hưng Yên nói riêng. Đồng thời khẳng định các doanh nghiệp trong đó có Nestlé đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tạo việc làm và đóng góp vào ngân sách nhà nước. Ông tin rằng doanh nghiệp sẽ tiếp tục đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh như: đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Xây dựng đội ngũ lao động có tay nghề, phong cách, kỷ luật; Đào tạo, hướng dẫn nâng cao nhận thức, kiến ​​thức về thực phẩm, dinh dưỡng …

 Nestlé nhà máy trị giá 110 triệu USD

Tập đoàn Nestlé mở rộng đầu tư tại Việt Nam, hiện Tập đoàn có nhiều nhà máy khác ở các tỉnh thành khác trên cả nước, nhằm mở rộng đầu tư Nestlé khánh thành nhà máy sản xuất MILO với số vốn đầu tư 1.600 tỷ đồng được đặt tại khu công nghiệp Thăng Long II tỉnh Hưng Yên.

Tập đoàn Nestlé tại Việt Nam tuyên bố sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống và góp phần làm nên một tương lai tươi sáng hơn ở Việt Nam nói chung và Hưng Yên nói riêng, phó giám đốc điều hành Nestlé SA- ông  Wan Ling Martello  khẳng định cam kết của Tập đoàn Nestlé tại Việt Nam trong việc phát triển chiến lượt kinh doanh của Tập đoàn tại đây.

Nhà máy sẽ tạo ra hơn 200 việc làm mới và nhiều việc làm gián tiếp cho người dân địa phương trong khi vẫn cho phép công ty phát triển các sáng kiến ​​mới và đồ uống bổ dưỡng cho người tiêu dùng Việt Nam.

Tính đến cuối năm 2016, toàn tỉnh có 360 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký 3,49 tỷ USD và 1.097 dự án trong nước trị giá hơn 4 tỷ USD. Nestlé là công ty thực phẩm lớn nhất thế giới, sử dụng hơn 328.000 nhân viên trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, nó có sáu nhà máy với hơn 2.000 nhân viên trên toàn quốc và tổng vốn đầu tư 520 triệu USD.

Hải Phòng hấp dẫn nhà đầu tư

Hải Phòng đã trở thành điểm đến lý tưởng cho các nhà đầu tư. Trong khi các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trị giá hàng tỷ đô la Mỹ đã được khởi công tại Hải Phòng, nhiều doanh nghiệp trong nước đã chọn thành phố để đầu tư.

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy từ đầu năm đến nay, Hải Phòng đã thu hút được hơn 2 tỷ USD vốn FDI, đứng đầu trong số các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Đáng chú ý, trong năm 2016, Hải Phòng đã thu hút được 1,5 tỷ USD dự án của LG Display Co., Ltd. từ Hàn Quốc (RoK). Dựa trên Khu Công nghiệp Trảng Dài, dự án được thiết kế để sản xuất màn hình OLED nhựa cho điện thoại di động, đồng hồ thông minh và máy tính bảng. Đây là dự án lớn thứ hai của Tập đoàn LG tại Hải Phòng. Dự kiến hai dự án khổng lồ với số vốn hơn 1 tỷ USD của tập đoàn LG sẽ xuất hiện trong Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải.

Hải Phòng đã thu hút nhiều dự án FDI khác, trong đó có dự án sản xuất kết cấu thép trị giá 34 triệu USD của Cơ sở Hạ tầng IHI (Nhật Bản); Dự án Flat Vietnam của Flat Co., Ltd. (Hồng Kông, Trung Quốc), dự án Flat Vietnam của Công ty TNHH Flat Vietnam với giá trị là 42,25 triệu đô la Mỹ, sản xuất các bộ phận của máy giặt, tủ lạnh và xe có động cơ của Công ty TNHH Điện tử SL, Trung Quốc), trong số những người khác.

Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy Hải Phòng đã thu hút được hơn 540 dự án FDI với vốn đầu tư đăng ký gần 14 tỷ USD.

Hải Phòng là tỉnh thuộc trọng tâm khu kinh tế phía Bắc nên thu hút được nhiều dự án đầu tư lớn trong nước với tổng số vốn đầu tư hàng nghìn tỷ đồng từ các tập đoàn và doanh nghiệp như Vingroup, Him Lam, Xuân Trường, Bitexco và các đơn vị khác. Các dự án này góp phần cho Hải Phòng thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh của dịch vụ và công nghiệp đóng góp vào GDP tổng thể của tỉnh.

Nhiều nhà đầu tư cho biết, với tổng vốn đầu tư hàng tỷ đô la Mỹ, cảng Hải Phòng, sân bay quốc tế Cát Bi, cầu Tân Vũ – Lạch Huyện, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và Khu kinh tế Đình Vũ – Cát Hải tạo ra sự kết hợp tuyệt vời Giúp phát huy tiềm năng thị trường và lực lượng lao động 20 triệu người của miền Bắc.

Năm 2016 với mục tiêu tạo thuận lợi cho sự phát triển của tỉnh Hải Phòng đã khánh thành dự án mở rộng sân bay quốc tế Cát Bi và bắt đầu xây dựng Dự án Cảng Container Quốc tế Hải Phòng, nhằm tạo điều kiện vận hành tốt trên địa bàn tỉnh mà còn giúp kết nối với các khu vực lân cận. Những dự án trọng điểm này góp phần đưa Hải Phòng trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư.

Ngoài cơ sở hạ tầng phù hợp, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng Lê Trung Kiên cho biết, trong thời gian tới, Hải Phòng sẽ có nhiều giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu tư, cho phép họ đầu tư lâu dài vào thành phố.

Nhìn chung, Hải Phòng đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi và cơ sở hạ tầng nhằm thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp, để góp phần giúp kinh tế của tỉnh phát triển nhanh.