Chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) của Hải Phòng tăng hơn 20,5%

 Kể từ đầu năm, chỉ số IPI của thành phố vẫn duy trì mức tăng trưởng liên tục so với cùng kỳ năm trước, chỉ riêng trong tháng 5, IPI ước tính tăng 11,5% so với tháng 4 và tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái.

 Nhìn chung, trong 5 tháng đầu năm 2017, ước tính tăng 20,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Phân loại dựa trên các nhóm tăng trưởng, cho thấy có 28 ngành kinh tế có IPI tăng so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, một số ngành có tốc độ tăng trưởng cao như may mặc thống nhất với tỷ lệ tăng trên 20,1%, sản xuất thiết bị điện gia dụng với tỷ lệ tăng trên 14%, sản xuất lốp và ống cao su tăng hơn 90%; Sản xuất phân bón tăng trên 53%; Ngành công nghiệp điện tử dân dụng tăng hơn 49% …

Trong thời gian tới ngành công nghiệp và thương mại Hải Phòng cần tập trung chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp đối phó để tháo gỡ khó khăn, giúp đỡ để cải thiện sản xuất cũng như mở rộng thị trường, đặc biệt là cung cấp điện cho sản xuất và các dự án trọng điểm; Tiếp tục thực hiện các chương trình, dự án khuyến khích nông nghiệp, phát triển thương mại điện tử trong thành phố; Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình “Tăng cường khả năng cạnh tranh xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thông qua hệ thống xúc tiến thương mại địa phương”.

Ra nghị quyết về phát triển công nghiệp mới của thành phố đến năm 2020

Ban thường trực Tỉnh ủy Hải Phòng vừa tổ chức Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 03 ngày 06 tháng 6 năm 2006 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp đến năm 2010 với định hướng đến năm 2020.

Thảo luận tại hội nghị, đánh giá đánh giá; Giai đoạn 2006 – 2015, phát triển công nghiệp của thành phố đã được tiếp cận với tầm nhìn, mục tiêu và định hướng phát triển của Nghị quyết. Ngành công nghiệp liên tục tăng trưởng, duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối cao, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 tăng 3,28 lần so với năm 2006, đứng thứ 8 trong số 63 tỉnh, thành trong cả nước, đứng thứ 3 trên sông Hồng Đồng bằng. Vào năm 2015, tổng sản phẩm trong nước (GRDP) của ngành xây dựng chiếm 37,84% GRDP của thành phố. Các khu công nghiệp và công viên đã được phát triển khá nhanh theo kế hoạch.

Tại hội nghị, phát triển công nghiệp của thành phố đến năm 2020 với các mục tiêu chung; Phát huy tối đa lợi thế, huy động mọi nguồn lực, bùng phát trong tăng trưởng công nghiệp, xây dựng Hải Phòng trở thành một trung tâm công nghiệp khổng lồ với sự hoàn thành mạnh mẽ, tập trung vào tăng trưởng xanh, đầu tư cơ sở hạ tầng công nghiệp, đổi mới phương thức thu hút đầu tư, lực lượng.

Hải Dương kêu gọi sử dụng hiệu quả các nguồn lực để phát triển bền vững

Hải Dương – Là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hải Dương cần thúc đẩy tính năng động và đổi mới, phát huy thế mạnh của địa phương, vận động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực để phát triển kinh tế nhanh, toàn diện và bền vững.

 Hải Dương cần đẩy mạnh cải cách hành chính và pháp luật nhằm xây dựng một chính phủ có thẩm quyền và hiệu quả phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh và doanh nghiệp phát triển phát triển, tỉnh cần ưu tiên cho các doanh nghiệp có thể hoạt động thuận lợi trong điều kiện kinh tế hiện nay.

Hải Dương cần tăng cường kết nối khu vực; Đa dạng hóa dịch vụ; Tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng trung tâm dịch vụ việc làm Hải Dương, giải quyết việc làm tại chỗ và đầu tư nhiều hơn cho khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng tăng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

Hiện tại, tổng số 325 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang được xây dựng ở Hải Dương, với tổng vốn đăng ký là 7,2 đô la Mỹ Tỷ đồng.

Hải Dương kêu gọi sử dụng nguồn nhân lực

Trong tình hình hiện nay,  tỉnh Hải Dương cần tận dụng lợi thế về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để thúc đẩy tăng trưởng ở địa phương.

Hải Dương cần chủ động tìm kiếm các phương pháp năng động và sáng tạo để tiến tới một cách nhanh chóng và bền vững, Thủ tướng cho biết tại buổi làm việc với các quan chức chính của tỉnh tại Hà Nội .

Địa phương đã được yêu cầu cơ cấu lại mạnh mẽ nền kinh tế, tập trung vào việc không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng và cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ.

Tỉnh đẩy mạnh thu hút đầu tư và sản xuất công nghiệp, đặc biệt là các dự án công nghệ cao.

Tỉnh cần tập trung đào tạo nghề và tạo việc làm cho người trong độ tuổi lao động của tỉnh. Nguồn nhân lực lao động của tỉnh còn nhiều hạn chế, nhu cầu sử dụng lao động tại các khu công nghiệp của tỉnh ngày càng cao, vì vậy kêu gọi đầu tư nguồn nhân lực hiện tại là nhu cầu thiết thực hiện nay nhằm cung cấp nguồn lao động có tay nghề và kỹ năng tốt cho các doanh nghiệp. Bằng những nỗ lực không mệt mỏi sẽ giúp doanh nghiệp tăng trưởng ổn định, người lao động tìm việc làm phù hợp, cuộc sống của họ tốt hơn sẽ giúp phát triển nền kinh tế của tỉnh ngày càng tăng cao.

Hải Dương đang phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 6-6,5% và tăng thu nhập bình quân đầu người lên 33,6 triệu đồng trong năm nay, Chủ tịch Hiên nói.

Samsung dự kiến đầu tư thêm vào Bắc Ninh

Samsung Display Co thông báo kế hoạch đầu tư thêm 2,5 tỷ đô la Mỹ để mở rộng dây chuyền lắp ráp màn hình hiển thị tại tỉnh Bắc Ninh.

 Theo nhiều nguồn tin từ ngành công nghiệp, công ty con của Samsung Electronics đã tham gia vào một loạt các cuộc đàm phán với chính phủ Việt Nam về việc mở rộng nhà máy hiện tại ở nước này trong thời gian tới.

Các cuộc đàm phán được cho là tập trung vào việc cắt giảm thuế hoặc các nhượng bộ tiềm ẩn khác để đổi lấy nhà đầu tư của Hàn Quốc đầu tư thêm vào các nhà máy ở tỉnh Bắc Ninh ở miền Bắc Việt Nam.

Samsung Display bắt đầu xây dựng các cơ sở sản xuất màn hình hiển thị vào cuối năm 2014 trên đất không sử dụng tại nhà máy Samsung Electronics ở tỉnh Bắc Ninh và bắt đầu sản xuất vào tháng 3 năm 2015.

Các mô-đun hiển thị OLED sản xuất tại tỉnh Bắc Ninh được sử dụng để cung cấp các nhà máy sản xuất của Samsung Electronics nằm ở các tỉnh Bắc Ninh và Thái Nguyên.

Samsung xác nhận mở rộng 2,5 tỷ USD tại Bắc Ninh

Trong bối cảnh chuẩn bị kế hoạch của Samsung tại Việt Nam, Samsung sẽ nhận được giấy chứng nhận đầu tư cho dự án Samsung Display 2.5 tỷ đô la ở tỉnh Bắc Ninh.

Samsung xác nhận mở rộng 2,5 tỷ USD tại Bắc Ninh

Dự án sẽ được đặt tại Khu công nghiệp Yên Phong. Chính phủ đã chấp thuận về nguyên tắc trước đó, và chính phủ sẽ cung cấp cho dự án tất cả các ưu đãi có sẵn cho một dự án quy mô lớn.

Với dự án này, tổng đầu tư của Samsung Display tại Việt Nam sẽ là 6,5 tỷ USD.

Samsung là công ty duy nhất trên thế giới có công nghệ độc quyền và khả năng sản xuất hàng loạt các màn hình AMOLED để đáp ứng nhu cầu của Apple. Hiện tại, Samsung đang nắm giữ 95% thị phần AMOLED toàn cầu, sản xuất trung bình 200 triệu sản phẩm một năm.

Với sự đầu tư này, Samsung khẳng định lại vị thế của mình là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam vào thời điểm này. Việc mở rộng cũng phần nào làm rõ nghi vấn của công chúng rằng Samsung có thể hoãn kế hoạch đầu tư của mình tại Việt Nam, sau khi Lee Jae-yong, phó chủ tịch Samsung Electronics và con trai của Chủ tịch nhóm Samsung Lee Kun-hee bị bắt vào ngày 17 tháng 2 như là một phần Của một cuộc điều tra tham nhũng và gây ảnh hưởng – khiến cho Tổng thống Park Geun-hye bị impeached.

Hiện tại Samsung đã đăng ký 17,3 tỷ Đô la Mỹ đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh 6,5 tỷ USD của Samsung Display là 9,5 tỷ USD đầu tư của Samsung Electronics, bao gồm 5 tỷ USD ở Thái Nguyên, 2,5 tỷ USD ở Bắc Ninh và 2 tỷ USD tại thành phố Hồ Chí Minh và dự án Cơ điện tử Samsung của Thái Nguyên trị giá 1,2 tỷ USD.

Tập đoàn Samsung Display Hàn Quốc lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam vào năm 2014 với 1 tỷ USD tại khu công nghiệp Samsung Bắc Ninh. Sau đó năm sau, công ty quyết định tăng vốn lên 4 tỷ USD và năm 2017 là 6,5 tỷ USD.

Dự án tại Samsung Bắc Ninh sẽ sản xuất màn hình hiển thị mới nhất của công ty để cung cấp cho thị trường các cơ sở sản xuất thiết bị di động của Samsung tại Việt Nam cũng như xuất khẩu ra nước ngoài.

 

Bắc Ninh đứng đầu tập trung nhiều khu công nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ

Bắc Ninh là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng của đồng bằng Bắc Bộ, và tam giác tăng trưởng kinh tế của Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Bắc Ninh với đặc thù kinh tế phát triển nhanh, có địa hình thuận lợi và tiếp giáp nhiều khu trung tâm của phía Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Bắc giáp tỉnh Hưng Yên, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây giáp Hà Nội.

Dân số của tỉnh là 1.050.000, trong đó 700.000 người đang ở độ tuổi lao động. Lực lượng lao động của tỉnh Bắc Ninh tương đối trẻ, 47,5% đã được đào tạo và có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến cũng như quản lý theo yêu cầu của nhà đầu tư.

Cư dân Bắc Ninh có trình độ học vấn tốt; Đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao; Công nhân lành nghề; Hầu hết công nhân đều quen thuộc với ngành sản xuất hàng hoá và tự động phản ứng với cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, Bắc Ninh còn hấp dẫn các cán bộ khoa học có trình độ tại Hà Nội.

Tính đến năm 2013, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 399 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 5700,11 triệu USD, đứng thứ 11 trong cả nước về vốn đăng ký. Năm 2013, tỉnh Bắc Ninh cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 105 dự án với số vốn đăng ký là 417,53 triệu USD. Có 20 dự án với vốn mở rộng là 1.110,41 triệu USD. Năm 2013, tỉnh thu hút được 1,528 triệu USD vốn FDI, đứng thứ 6 và chiếm 7,1% tổng vốn đầu tư của cả nước.

Tỉnh có 15 khu công nghiệp tập trung được Chính phủ phê duyệt với diện tích 7831 ha, trong đó diện tích quy hoạch cho KCN là 6847 ha, khu đô thị và dịch vụ kết hợp với KCN là 984 ha; 28 cụm công nghiệp với tổng diện tích 863,9 ha. Rõ ràng tiềm năng của tỉnh về phát triển công nghiệp là rất lớn.

Các KCN ở tỉnh Bắc Ninh đã thu hút được các công ty BĐS lớn như Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị và Đô thị Việt Nam-Singapore, Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Kinh Bắc, Tổng Công ty Viglacera, Tổng Công ty Sông Đà, IDICO Corporation … đang điều hành cơ sở hạ tầng và cung cấp Dịch vụ cơ sở hạ tầng hoàn hảo cho các comapnies lớn như Canon, SamSung Electronics, ABB.

Hiện nay, là tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp nên thu hút nhiều nhà đầu tư tong cũng như ngoài nước, tại Bắc Ninh có nhiều công ty lớn có uy tín trên thế giới như  Foxconn, Mictac (Đài Loan Trung Quốc); Tyco Electronics (Hoa Kỳ); ABB (Thụy Điển), Canon, Sumitomo (Nhật Bản); SamSung, Orion (Hàn Quốc).

Là một trong những tỉnh tập trung nhiều khu công nghiệp nhất ở phía Bắc, Bắc Ninh nổi lên như một tỉnh thành có nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Những sự kiện này cho thấy Bắc Ninh có tiềm năng phát triển rất lớn, thu hút các nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là từ các tập đoàn lớn trên thế giới.

 

Hải Dương Chuẩn bị tốt cho cơ sở hạ tầng IP để chào đón các nhà đầu tư

Tỉnh Hải Dương đã thu hút được nhiều khoản đầu tư vào các KCN trong những năm gần đây với cơ sở hạ tầng hiện đại, sản xuất ổn định, tạo việc làm cho người lao động địa phương và góp phần vào ngân sách nhà nước.

Theo quy hoạch  đến năm 2020 Hải Dương sẽ có 18 khu công nghiệp được đầu tư cơ sở hạ tầng theo tiêu chuẩn quốc tế với tổng diện tích 3.517 ha.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Hải Dương đã có 10 KCN với tổng diện tích quy hoạch là 1.823,84 ha được thành lập và triển khai các dự án kinh doanh cơ sở hạ tầng – xây dựng. Trong đó, có 7 KCN bao gồm Nam Sách, Đại An, Phúc Điền, Tân Trương, Việt Hoa – Kenmark, Lai Vũ, Phú Thái .

Bên cạnh đó, một số dự án cơ sở hạ tầng đã bị trì hoãn do công tác giải phóng mặt bằng, giao đất và chờ điều chỉnh quy hoạch chi tiết để phù hợp với tình hình thu hút đầu tư, một số dự án cơ sở hạ tầng phải đối mặt với sự phản kháng của một số người nên phải ngừng hoạt động trong vài năm Như Lai Cạch, Lai Vũ, Cam Điền – Lương Điền.

Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam đặc biệt bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế và tài chính; Tuy nhiên với sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành và lãnh đạo tỉnh Hải Dương, việc xúc tiến đầu tư của các nhà đầu tư, số lượng dự án và vốn đầu tư hàng năm cũng tăng lên. Năm 2012, cơ quan đã cấp phép 13 dự án với tổng vốn 45,80 triệu USD và điều chỉnh bổ sung vốn cho 8 dự án. Trong năm 2013, cơ quan có thẩm quyền cấp phép 18 dự án, tổng số US $ 619.895.000.000, và điều chỉnh vốn cho 12 dự án. Năm 2014, đã cấp phép 25 dự án với tổng vốn 389.218 triệu đô la Mỹ cho 12 dự án. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm nay đã có 6 dự án mới với tổng số vốn 117,937 triệu USD, và 6 dự án nhận được tổng vốn tăng thêm khoảng 228,540 triệu USD.

Đến nay, các KCN của tỉnh đã thu hút 198 dự án (gồm 14 dự án cơ sở hạ tầng và 184 dự án cơ sở hạ tầng thứ cấp) từ 16 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký hơn 3,87 tỷ USD. Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp để cho thuê là trên 61%, trong đó 3 KCN (Nam Sách, Phúc Điền, Phú Thái – Giai đoạn 1) đạt tỷ lệ chiếm dụng 100% đất thuê công nghiệp.

Sau khi được cấp phép, hầu hết các doanh nghiệp đều nhanh chóng thực hiện dự án. Các dự án đầu tư vào KCN có công nghệ tiên tiến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông. Kết quả sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đều ổn định, tỷ lệ xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh. Năm 2014, có hơn 140 dự án đang hoạt động với doanh thu đạt 2,8 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 2,7 tỷ USD và nhập khẩu 1,9 tỷ USD, đóng góp 50 triệu USD vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho gần 750 nghìn lao động.

Những khó khăn và trở ngại trong việc thu hút đầu tư vào KCN hiện nay

Trong thời gian qua, việc xúc tiến thu hút đầu tư vào các KCN trong nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói riêng đã bị ảnh hưởng bởi tác động của khủng hoảng kinh tế. Hàng năm, CQCQ Hải Dương đang tích cực phối hợp với các văn phòng địa phương khác để tư vấn cho UBND tỉnh thực hiện một số biện pháp nhằm từng bước hoàn thiện môi trường đầu tư của tỉnh như tổ chức các đoàn công tác xúc tiến đầu tư ra nước ngoài, họp hội nghị, Lãnh đạo, nhà đầu tư trao đổi, xóa bỏ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án, sản xuất, phối hợp hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư hạ tầng cơ sở trong việc giải quyết thủ tục hành chính để thu hút các dự án đầu tư. Các nhà lãnh đạo thường chỉ đạo các bộ phận chuyên trách thực hiện việc quản lý và thực hiện các thủ tục hành chính nhanh chóng, nhanh chóng và hợp lý.

Bên cạnh đó quá trình thực hiện vẫn còn phải đối mặt với một số vấn đề như hệ thống pháp luật chồng chéo cho các nhà đầu tư; Thủ tục hành chính liên quan đến thuế Hải quan, nhập cư cho người nước ngoài, Nhà ở cho công nhân trong khu công nghiệp nói chung và các khu công nghiệp Hải Dương nói riêng còn hạn chế; Trong khi lực lượng lao động có kỹ năng và kinh nghiệm hạn chế, và hạn chế trình độ ngoại ngữ.

Để nâng cao hơn nữa kết quả đầu tư của tỉnh Hải Dương nói chung, các lĩnh vực cụ thể mà tỉnh tập trung vào.

Tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với phương hướng xây dựng tỉnh Hải Dương trở thành điểm đến thân thiện, và hấp dẫn cho các nhà đầu tư; Thu hút vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh ngày một tăng trưởng mạnh hơn ở các lĩnh vực kinh tế.

Hiện nay, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hải Dương nói riêng và tỉnh Hải Dương nói chung đang tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư theo hướng chuyên nghiệp. Theo đó, chúng tôi thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp sạch; Ưu tiên phát triển các ngành sản xuất có hàm lượng cao về khoa học và công nghệ, có giá trị gia tăng cao, không gây ô nhiễm môi trường và công nghiệp phụ trợ.

LG Display Vietnam tại Hải Phòng bổ sung vốn đầu tư 90 triệu đô la Mỹ

LG Display Vietnam tại Hải Phòng dự kiến xây dựng 13 tòa nhà cho ký túc xá và khu nhà ở phúc lợi phục vụ đủ từ 10.000 đến 12.000 nhân viên, với đề xuất tăng tổng vốn từ 1,5 tỷ USD lên 1,59 tỷ USD để thực hiện kế hoạch xây thêm ký túc xá cho nhân viên.

Tổng diện tích cho ký túc xá là 12,6 ha bắt đầu từ quý I năm 2017 và dự kiến ​​sẽ hoàn thành hai tòa nhà đầu tiên vào quý 3 năm 2017; Toàn bộ ký túc xá sẽ được hoàn thành vào năm 2020.

Khu ký túc xá và cơ sở hạ tầng phục vụ người lao động được đề xuất áp dụng thuế suất thuế GTGT, thuế xuất nhập khẩu theo thuế suất đối với các doanh nghiệp khu chế xuất theo thời giá hiện tại của giấy phép đầu tư điều chỉnh được giải phóng.

Dự án này cũng được coi là tài sản cố định ở Hải Phòng bị suy giảm, hạch toán vào chi phí sản xuất trong hồ sơ xin thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với các quy định hiện hành về thuế và kế toán.

Dự án LG Display Vietnam tại Hải Phòng có quy mô gần 1,5 tỷ đô la Mỹ tại thời điểm giấy phép đầu tư ban đầu, sản xuất màn hình OLED nhựa cho các thiết bị di động với công suất từ ​​7 đến 8 triệu sản phẩm mỗi tháng và từ 90.000 đến 100.000 OLED Màn hình TV mỗi tháng.

LG đầu tư 1,5 tỷ USD vào sản xuất điện tử Việt Nam

Như đã biết ngày 6 tháng 5 năm 2016, LG Display Group, một công ty con của LG Electronics của Nam Hàn, cam kết sẽ chi 1,5 tỷ USD để thành lập nhà máy sản xuất màn hình ở Hải Phòng. Ra mắt vào năm tới, nhà máy sẽ sản xuất màn hình kỹ thuật số công nghệ cao sử dụng điốt phát quang hữu cơ của LG. Việc đầu tư này chỉ diễn ra chỉ một năm sau khi LG mở một nhà máy trị giá 1,5 tỉ đô la Mỹ tại Hải Phòng và tiếp tục đầu tư tương tự từ Samsung và Nokia.

Ngoài các cam kết quốc tế, chính phủ Việt Nam nói chung và tỉnh Hải Phòng nói riêng cũng đã thiết lập một quan điểm đầu tư nước ngoài và đã và đang làm việc để cải thiện khuôn khổ pháp lý của mình. Đối với điện tử, các công ty đầu tư vào sản xuất phần mềm hoặc các nhà máy công nghệ cao sẽ đủ điều kiện để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là 17 phần trăm – giảm so với mức chuẩn là 20 phần trăm.

Ngoài cơ sở hạ tầng và năng suất lao động, mức độ quan liêu có thể làm chậm sản xuất và gây ra những thách thức chung đối với việc kinh doanh. Trở ngại này có thể phải đối mặt với sự hiểu biết toàn diện về các quy định của địa phương. Sự hiểu biết như vậy sẽ giúp định hướng các luật của Việt Nam tiếp tục phát triển và thường gây khó khăn cho những người không quen với cách giải thích và áp dụng của họ.

Khu kinh tế và khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh thành Bắc Bộ có nhiều khu công nghiệp quy mô lớn tập trung trên địa bàn tỉnh. Với sự phát triển kinh tế ngày càng tăng, đã thu hút được nhiều nhà đầu tư gồm các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Tiên Sơn: Diện tích: 402 ha, nằm giữa Quốc lộ Mới và Cũ 1A; Cách thủ đô Hà Nội 18 km; 35km từ Sân bay Quốc tế Nội Bài; 120 km từ cảng Cái Lân (Quảng Ninh); 90 km từ cảng Hải Phòng; Cơ sở hạ tầng hài hòa: Trạm điện 110 / 60MVA; Trạm cấp nước an toàn công suất 6.500m3 / ngày đêm; Trung tâm điều hành; Đường nội bộ chính rộng 37,5m, đường phân phối; Hệ thống thoát nước thải và xử lý nước thải; Dịch vụ viễn thông, ngân hàng, hải quan, dịch vụ bảo vệ; Trung tâm hậu cần container.

Địa chỉ IP Đại Đồng – Hoàn Sơn: Diện tích (giai đoạn 1): 368 ha. Địa thế ở gần ngã ba Quốc lộ 1A và đường tỉnh số 295; Cách thủ đô Hà Nội 18 km; 37km từ Sân bay Quốc tế Nội Bài. Cơ sở hạ tầng trong KCN đang được phát triển hài hòa theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Khu công nghiệp VSIP: với diện tích quy hoạch: 500 ha. Vị trí: gần ngã ba Quốc lộ 1A và đường tỉnh số 295; Cách thủ đô Hà Nội 16 km; Cách cảng Hải Phòng 100km; 39 km từ Sân bay Quốc tế Nội Bài; 125 km từ cảng Cái Lân (Quảng Ninh);

Từ Sơn: có diện tích: 303 ha, tiếp giáp với Quốc lộ 1A và thị xã Từ Sơn; Cách Thủ đô Hà Nội 14 km; 28km từ Sân bay Nội Nội; Cách cảng Hải Phòng 85km.Cơ sở hạ tầng trong KCN sẽ được phát triển hài hòa theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Khu công nghiệp Hanaka IP: có tổng diện tích là 74 ha, có vị trí nằm tiếp giáp với Quốc lộ 1A và thị xã Từ Sơn; khu công nghiệp nằm cách Thủ đô Hà Nội khoảng 14 km; và cách Sân bay Nội Bài là 28 Km.

Quế Võ IP: Diện tích: 610 ha, nằm tiếp giáp quốc lộ 18 giữa Nội Bài – Hạ Long, quốc lộ 1A và đường sắt Hà Nội – Bắc Ninh đến cảng biển Cảng Lô; Cách thủ đô Hà Nội 33 km; 34km từ Sân bay Nội Nội; 110 km từ cảng Cái Lân (Quảng Ninh); Cách cảng biển Hải Phòng 100km. Cơ sở hạ tầng hài hoà: trạm 110 / 220KV-80 MVA, trạm cấp nước an toàn công suất 6.500m3 / ngày đêm, trung tâm điều hành, đường nội bộ chính 37.5m chiều rộng, đường phân phối, hệ thống thoát nước thải và xử lý nước thải; Dịch vụ viễn thông, ngân hàng, hải quan, dịch vụ bảo vệ;

Ngoài ra, Khu Đô thị Phúc Ninh (120 ha) dự kiến ​​sẽ trở thành khu vực cung cấp dịch vụ cho KCN này.

Quế Võ II: khu công nghiệp Quế Võ II có vị trí nằm tiếp giáp đường quốc lộ số 18 giữa sân bay Nội Bài – thành phố Hạ Long; nằm cách thủ đô Hà Nội khoảng 50 km và khu công nghiệp cách sân bay quốc tế Nội Bài 50km; Hạ tầng cơ sở trong KCN đang được phát triển hài hòa theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Khu công nghiệp Quế Võ III: 524 ha, giáp Quốc lộ 18 giữa Nội Bài – Hạ Long; 45 km từ Thủ đô Hà Nội; 40km từ Sân bay Nội Nội; 100 km từ cảng Cái Lân (Quảng Ninh); Cách cảng biển Hải Phòng 100km.

Khu công nghiệp Yên Phong I: Diện tích: 665 ha, nằm giáp với Quốc lộ 18 giữa Nội Bài – Hạ Long; Cách Hà Nội 30 km; Cách sân bay quốc tế Nội Nội 18km; Cách cảng Cái Lân 122 km (tỉnh Quảng Ninh); 112 km từ cảng Hải Phòng.

Khu công nghiệp Thuận Thành II: Diện tích: 252 ha. Vị trí: tiếp giáp với Quốc lộ 38 và thị xã Hồ; Cách thủ đô Hà Nội 30 km; Cách thành phố Bắc Ninh 12 km; 55km từ Sân bay Nội Nội; 90 km từ cảng Hải Phòng.

Khu công nghiệp Thuận Thành III: Diện tích: 504 ha. Vị trí: tiếp giáp đường quốc lộ 282, giữa đường Hồ – Phú Thúy, về phía nam thành phố Hồ; Cách thủ đô Hà Nội 25 km; Cách thành phố Bắc Ninh 17 km; 47km từ sân bay Nội Nội; Cách cảng Hải Phòng 85km.

Cơ sở hạ tầng trong KCN sẽ được phát triển hài hòa để đáp ứng các yêu cầu phát triển của KCN.

Hải Dương hướng tới mục tiêu phát triển khu công nghiệp bền vững

Tỉnh Hải Dương với 18 khu công nghiệp nằm ở phía Bắc của tỉnh, với tổng diện tích 3.710 ha. KCN ở Hải Dương đang có sức hút mạnh mẽ đến các nhà đầu tư trong nước và quốc tế, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh.

Là một bộ phận của tam giác kinh tế trọng điểm Bắc nối với các vùng có các tuyến giao thông như Quốc lộ 5, 18, 37 và 38B, đường sắt Hà Nội – Hải Phòng, tỉnh Hải Dương có lợi thế cạnh tranh lớn để hình thành các khu công nghiệp.

Ngay sau khi dự kiến, KCN đã thu hút nhiều nhà đầu tư hạ tầng cơ sở có năng lực tài chính mạnh như Công ty Cổ phần Đại An và Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Hạ tầng Nam Quang.

Để hỗ trợ các KCN phát triển, tỉnh đã sử dụng tất cả các nguồn lực để xây dựng hệ thống và cơ sở hạ tầng đồng bộ cho hàng rào của KCN, bao gồm các tuyến giao thông, lưới điện, hệ thống cấp nước và hệ thống thông tin liên lạc.

Hải Dương cũng rất coi trọng cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường đầu tư thân thiện. Tỉnh đã đưa ra một cơ chế ưu tiên riêng cho các công ty đầu tư vào các khu công nghiệp.

Các thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng bằng cơ chế nguồn một cửa và một cửa để tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư khi tiến hành các thủ tục đầu tư và thực hiện các dự án. Chính quyền địa phương chủ động giám sát, kiểm tra các dự án đầu tư và hỗ trợ để giải quyết những khó khăn đang nổi lên để đưa dự án đi vào hoạt động đúng tiến độ.

Do đó, mặc dù trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, ngoài các dự án mới, các nhà đầu tư cũng đã tăng đầu tư để mở rộng sản xuất, nâng cấp trang thiết bị và dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng thị trường.

Năm 2013, Ban Quản lý các Khu công nghiệp Hải Dương đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 18 dự án mới, trong đó có 15 dự án đầu tư nước ngoài và 3 dự án trong nước, thay thế giấy chứng nhận đầu tư cho 58 dự án, trong đó có 12 dự án nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 747 triệu USD, cả vốn tươi và vốn bổ sung, và các nhà đầu tư trong nước đã thu được 508,8 tỷ đồng (25 triệu USD).

Năm 2013, lượng vốn đầu tư thu hút vào các KCN tăng 38% trong năm 2012 và vượt qua kế hoạch 50% hàng năm. Số dự án bổ sung vốn đầu tư tăng 62% so với năm 2012 và kế hoạch dự kiến. Lượng vốn nước ngoài trong năm tăng 7,9 lần so với năm 2012 và gấp 7,4 lần so với kế hoạch, trong khi vốn đầu tư trực tiếp trong nước bằng 95,7% giá trị năm 2012, nhưng tăng 5 lần so với kế hoạch.

Các KCN đã góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư, mở rộng xuất khẩu, tăng thu ngân sách, tạo việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm.

Cho đến nay, có 176 dự án và một văn phòng đại diện, bao gồm cả các nhà phát triển hạ tầng, đã đăng ký đầu tư hơn 3 tỷ USD vào KCN. Năm 2013, các nhà đầu tư đã giải ngân 274 triệu USD cho các dự án của họ, đưa tổng lượng giải ngân của họ lên hơn 1,8 tỷ USD. Người thuê trong KCN đang sử dụng khoảng 70.000 công nhân, bao gồm 69.400 công nhân trong nước và 600 người nước ngoài).

Trong thời gian tới, tỉnh Hải Dương sẽ tiếp tục phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, quản lý hiệu quả các khu công nghiệp đã được phê duyệt và thúc giục các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng thực hiện dự án đúng tiến độ.

Tỉnh cũng sẽ đẩy mạnh xúc tiến đầu tư và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các dự án quy mô lớn sử dụng công nghệ tiên tiến, phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất hàng xuất khẩu – đặc biệt là hàng may mặc, điện, điện tử, thiết bị viễn thông và cáp. Địa phương cũng sẽ tăng cường kiểm tra và hướng dẫn cho người thuê trong khu công nghiệp.

Dự án Khu công nghiệp Cam Điền – Lương Điền Hải Dương

Theo chỉ đạo của Chính phủ, UBND tỉnh Hải Dương đã thống nhất mở rộng tiến độ thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Cẩm Điền – Lương Điền (Cẩm Giang).

Mục đích là để giúp Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị và Phát triển Thị xã Việt Nam Singapore. (VSIP JSC) tiếp tục đầu tư hiệu quả sau khi chuyển.

Nhà đầu tư ban đầu là Công ty TNHH Phúc Hưng. Tuy nhiên, dự án đã chậm so với kế hoạch do khó khăn trong giải phóng mặt bằng, bồi thường kéo dài và giao đất, hạn chế về tình hình tài chính của nhà đầu tư và thu hút các dự án đầu tư vào KCN.

 Khu công nghiệp Lương Điền – Cẩm Ðiền sớm đi vào hoạt động

Dự án bao gồm khoảng 150 ha với tổng vốn đầu tư là 1.185,5 tỷ đồng.

UBND tỉnh Hải Dương (UBND tỉnh) đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty Cổ phần Phát triển Khu công nghiệp và Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore. (VSIP), cho phép thành lập Công ty TNHH VSIP Hải Dương và thực hiện dự án xây dựng và kinh doanh hạ tầng tại KCN Lương Điền – Cẩm Ðộng (IP). Dự án bao gồm khoảng 150 ha với tổng vốn đầu tư là 1.185,5 tỷ đồng.

Việc thành lập Công ty Cổ phần Cam Điền – Lương Điền, nằm cạnh quốc lộ 5 trên địa bàn xã Lương Điền, xã Cẩm Điền (Cẩm Giang) được Thủ tướng Chính phủ cho phép năm 2008.

Dự án xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng IP trước đây được Công ty Phúc Hưng đầu tư xây dựng. Dự án đã ngừng hoạt động từ năm 2011 để điều chỉnh quy hoạch. Do kết cấu hạ tầng chậm, việc thu hút các dự án đầu tư vào KCN gặp nhiều khó khăn.

Công ty TNHH Phúc Hưng đã chủ động tìm kiếm đối tác để chuyển giao dự án từ năm 2012. Xác định VSIP là một nhà đầu tư có kinh nghiệm và có tiềm năng về tài chính tốt, UBND tỉnh đã đồng ý chuyển dự án KCN Lương Điền – Cẩm Ðiển cho VSIP để triển khai tiếp.

Ông Nguyễn Mạnh Hiển, Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Công ty TNHH VSIP Hải Dương phải tập trung các điều kiện và nguồn lực để sớm khởi công xây dựng, thu hút các nhà đầu tư, đưa KCN Lương Điền – Cẩm Ði vào hoạt động Thời gian ngắn nhất.

Các sở, ngành có liên quan và Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Giang cần tập trung hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự án; Nhanh chóng thực hiện các thủ tục hành chính liên quan; Và sớm giải quyết các vấn đề hiện tại trong giải phóng mặt bằng để đảm bảo tiến độ dự án.

Hưng Yên phấn đấu tăng gấp đôi số doanh nghiệp mới thành lập

Tỉnh Hưng Yên phấn đấu đưa hơn 16.000 doanh nghiệp mới vào năm 2020, gấp đôi so với hiện nay, là một địa phương nằm trong vùng Thủ đô, với nhiều điều kiện thuận lợi, tỉnh cần có quyết tâm, biện pháp cụ thể để nhanh chóng phát huy tiềm năng, thế mạnh, xây dựng, phát triển Hưng Yên thành một tỉnh giàu mạnh.

Nằm ở bờ trái sông Hồng và trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, tỉnh Hưng Yên, còn gọi là Phố Hiến, là một khu đô thị bận rộn và một cảng thương mại nhộn nhịp của miền Bắc sau thành phố thủ đô Hà Nội Thế kỷ 17. Tên của nó cũng gắn liền với huyền thoại của Chu Đồng Tự, một trong bốn vị bất tử của Việt Nam. Tỉnh Hưng Yên được thành lập năm 1831 và tái lập năm 1997. Tỉnh có truyền thống yêu nước lâu đời là nơi có nhiều người yêu nước nổi tiếng, bao gồm Triệu Quang Phúc, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thiện Thuật và Hoàng Hoa Thám.

Với thực trạng hiện nay, tỉnh phấn đấu để địa phương sẽ tối ưu hóa lợi thế và tăng tính cạnh tranh cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn. Với xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, Tỉnh Hưng Yên tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đầu tư nâng cao năng lực nhằm phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh.

Đồng thời tỉnh còn khuyến khích khởi nghiệp các công ty mới và cố gắng phấn đấu có khoảng 16.000 doanh nghiệp mới thành lập đi vào hoạt động vào năm 2020, tăng gấp đôi các doanh nghiệp đang có hiện nay.

Nên tập trung cải cách hệ thống hành chính theo hướng quản lý hiện đại, năng động và hiệu quả, đồng thời cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh,  giải quyết các kiến nghị của doanh nghiệp, có quan hệ tương tác hiệu quả với doanh nghiệp để thu hút đầu tư về địa phương.

Hưng Yên cần đưa ra chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh bằng mức trung bình của khu vực trong giai đoạn 2017-2018, trong khi huy động các nguồn lực để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, thúc đẩy sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, Nông nghiệp công nghệ cao.

Tỉnh còn chú trọng hơn nữa đến phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ cao, đồng thời bảo đảm an sinh xã hội cho người dân địa phương.

Trong 20 năm qua, thực hiện chính sách Đổi mới của Đảng, tỉnh Hưng Yên đã tăng lên một địa phương với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức trung bình của cả nước, thu nhập từ vốn của địa phương đã tăng gấp 10 lần. Cơ cấu kinh tế đã chuyển đổi nhanh chóng theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hóa.

Nhận thức được tình hình hiện nay do nền kinh tế thế giới và trong nước đang phát triển khá nhanh với tốc độ cao, Hưng Yên cần tập trung phát triển nguồn nhân lực xã hội nhằm tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế tỉnh nhà. Tỉnh có mức phát triển tăng lên một địa phương với tăng trưởng kinh tế cao hơn mức trung bình của cả nước hiện nay.

Trong thời kỳ hiện nay, cơ cấu nền kinh tế của tỉnh đã phát triển nhanh chóng theo hướng hiện đại hoá và công nghiệp hóa. Hưng Yên hy vọng sẽ tạo được điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư tạo diều kiện việc làm cho người lao động.